Da là một cơ quan phức tạp, đa chức năng, thu hút nhiều sự quan tâm và nghiên cứu khoa học. Khoa học không ngừng làm sáng tỏ những phức tạp của sinh lý da, của các chất hóa học có trong da và sự tương tác của chúng. Kiến thức này làm tăng sự hiểu biết về quá trình bệnh da và lão hóa da xảy ra như thế nào.
Tìm hiểu chung về da
Các nhà khoa học đang xác định các thành phần hóa học riêng lẻ của da và các phản ứng hóa học và sinh lý học làm tăng tốc độ lão hóa. Với quá trình lão hóa được hiểu rõ hơn, các phòng thí nghiệm đang phát triển và kết hợp các thành phần mới vào các sản phẩm mỹ phẩm có thể làm giảm hoặc đẩy nhanh tác động của lão hóa và các vấn đề về da khác, cũng như chống lại và / hoặc điều chỉnh chúng. Một số lượng lớn các thành phần mỹ phẩm mới liên tục được giới thiệu và xu hướng này dự kiến sẽ tiếp tục với tốc độ nhanh. Nhiều thành phần được sử dụng trong mỹ phẩm nhằm mục đích trì hoãn quá trình lão hóa, trẻ hóa làn da, cải thiện các vấn đề về da, thậm chí giảm nguy cơ ung thư da. Sự hiểu biết vững chắc về sinh lý da cho phép tạo ra các công thức mỹ phẩm chăm sóc da có mục tiêu và hiệu quả hơn.
Giải phẫu học da thường
Da bao phủ toàn bộ cơ thể, chuyển thành niêm mạc ở những hố tự nhiên. Thường có cấu taho gồm những tổ chức như sau:
1. Thượng bì (epidermis)
Thượng bì là một biểu mô vảy có nhiều lớp, dày khoảng 0,1mm, ở lòng bàn tay, bàn chân khoảng 0,8-1,4mm.
Tế bào chính của thượng bì là tế bào sừng (keratinocyte) sản xuất ra chất sừng (protein keratin). Tính từ dưới lên thượng bì có 4 lớp (lớp đáy, lớp gai, lớp hạt, lớp sừng), riêng lòng bàn tay chân có 5 lớp (thêm lớp sáng).
1.1 Lớp đáy (stratum basale)
Là lớp sâu nhất của thượng bì, gồm một lớp tế bào hình trụ nằm sát ngay phía trên màng đáy. Rải rác xen giữa các tế bào đáy là tế bào sắc tố, tế bào Meckel. Lớp đáy sản xuất ra những tế bào mới thay thế tế bào cũ đã biệt hóa, tạo nên sự đổi mới của thượng bì. Nhìn chung, phải mất 4 tuần tế bào đáy mới dần biệt hóa đến lớp sừng. Một số bệnh như vảy nến, vảy phấn, quá trình biệt hóa từ tế bào đáy đến tế bào sừng nhanh hơn.
1.2 Lớp gai (stratum spinosum)
Là lớp tế bào hình đa diện, do các tế bào đáy di chuyển dần lên mà thành. Các tế bào gai nằm sát nhau, nối với nhau bằng cầu nối gian bào, giúp làn da không bị ngấm nước từ ngoài vào trong cơ thể, không bị thoát nước từ trong cơ thể ra ngoài, chống lại các tác nhân có hại của môi trường.
Trong lớp gai có tế bào Langerhans có chức năng miễn dịch,. Các tế bào gai cũng có khả năng sinh sản gián phân góp phần đổi mới thượng bì.
1.3 Lớp hạt (Stratum granulosum)
Lớp hạt gồm 4 hàng tế bào dẹt hơn tế bào gai. Nguyên sinh chất của tế bào này có chứa nhiều hạt keratohyalin do mỡ và sợi tơ keratin tạo thành. Giữa các lớp hạt cũng có những cầu nối gian bào nhưng ngắn và to hơn so với cầu nối gai.
1.4 Lớp sáng (stratum lucidum)
Lớp sáng nằm giữa lớp hạt và lớp sừng gồm 2-3 hàng tế bào rất dẹt nằm song song với mặt da. Các tế bào lớp sáng không có nhân, nguyên sinh chất, chỉ có sợi. Lớp sáng chỉ có ở lòng bàn tay, bàn chân. Các vùng da khác không có lớp sáng.
1.5 Lớp sừng (stratum corneum)
Lớp tế bào sừng là lớp ngoài cùng của thượng bì, là những tế bào dẹt không có nhân chứa đầy những mảnh sừng và mỡ chồng chéo lên nhau tạo nên một màng bảo vệ cơ thể không bị nước thấm vào, tránh những tác động từ môi trường bên ngoài cũng như mất nước từ bên trong cơ thể.
Ở những vùng da khác nhau lớp sừng dày, mỏng khác nhau, thường thì lớp sừng ở lòng bàn tay, chân sẽ dày hơn ở những vùng da khác. Hàng ngày, lớp tế bào sừng phía ngoài tách rời và bong ra liên tục tạo nên những vảy nhỏ như phấn, quện với mồ hôi và chất bã tạo thành ghét.
Các tế bào ở lớp thượng bì luôn luôn đổi mới, thay đổi dần hình thể. Lúc đầu các tế bào có trục thẳng đứng, sau đó ngày càng dẹt dần, có trục nằm ngang. Nhân càng lên cao càng hư biến, cuối cùng bị thoái hóa và tế bào không còn nhân. Càng lên cao tế bào càng nhiễm các hạt sừng. Thượng bì không có mạch máu mà được nuôi dưỡng bằng dịch khu trú ở liên gian bào. Các sợi thần kinh chỉ phân nhánh đến lớp đáy.
2. Trung bì (dermis)
Trung bì là lớp ngay sau lớp thượng bì, được ngăn cách với thượng bì qua màng đáy hay còn gọi là màng cơ bản. Các dịch sẽ từ trung bì ngấm qua màng đáy để nuôi dưỡng thượng bì. Ranh giới giữa thượng bì và trung bì không phải là một đường thẳng mà là đường lượn sóng. Phần sóng nhỏ nhô lên phía trên là gai bì, phần sóng lượn xuống dưới giữa hai gai bì là mào liên gai. Trung bì gồm hai lớp:
2.1 Trung bì nông (papillary dermis)
Đây là lớp nuôi dưỡng. Trên bề mặt có những gai nhô lên còn gọi là nhú bì hay gai bì ăn sâu vào thượng bì. Các gai do tổ chức liên kết tạo nên, có nhiều mao mạch. Các nhú bì có chiều cao và độ lớn khác nhau tùy theo vùng da. Da ở lòng bàn tay, chân các nhu có khi cao đến 0,2mm, ở da mặt thì lớp nhú rất mỏng.
2.2 Trung bì sâu (reticular dermis)
Trung bì sâu gồm có:
Những sợi chống đỡ
+ Sợi keo (collagen fiber) là những sợi thẳng không phân nhánh, cấu tạo bởi những chuỗi polypeptid, gồm 20 loại acid amin khác nhau, chủ yếu là glycin và argenin. Sợi keo là chất liệu chính làm cho da vững chắc trước tác động cơ học, lý học, hóa học từ bên ngoài. Sợi keo tập trung chủ yếu ở lớp trung bì sâu, một ít ở nhú bì, nang lông, tuyến bã, tuyến mồ hôi, quanh mạch máu.
+ Sợi chun hay sợi đàn hồi (elastic fiber) là những sợi mỏng, nhẵn có phân nhánh lượn sóng, bắt nguồn từ sợi keo.
+ Sợi lưới: cấu trúc giống sợi keo, tạo thành mạng lưới mỏng quanh mạch máu, tuyến mồ hôi.
+ Sợi liên võng (reticulum fiber): là dạng đặc biệt của sợi keo, tập trung ở trung bì nông, phần phụ của da, mạch máu.
Chất cơ bản: là một màng nhày gồm tryptophan, tyrosin, mucopolysaccharid, hyaluronic.
Tế bào:
+ Các tế bào xơ hình thoi hoặc hình amip, có nhân to hình bầu dục, chứa nhiều hạt ty lạp thể, có tác dụng làm da lên sẹo.
+ Tổ chức bào hình thoi hoặc hình sao, nó có thể biến thành thực bào, đại thực bào.
+ Dưỡng bào tham gia vào quá trình chuyển hóa heparin, histamin, acid hyaluronic.
Mạch máu, trung bì chỉ có những mạch máu nhỏ tập trung ở gai bì và quanh các tuyến.
Thần kinh:
+ Thần kinh não tủy có vỏ myelin, có nhánh đi riêng.
+ Thần kinh giao cảm không có vỏ myelin chạy trong các bao mạch máu.
3. Hạ bì (hypodermis)
Hạ bì nằm giữa trung bì và cân cơ hoặc màng xương, là tổ chức đệm biệt hóa thành tổ chức mỡ, có nhiều ô ngăn cách bởi những vách, nối liền với trung bì trong đó những mạch máu, thần kinh phân nhánh lên phía trên. Độ dày của hạ bì tùy thuộc thể trạng từng người. Đây là kho dự trữ mỡ lớn nhất của cơ thể, có chức năng điều hòa nhiệt.
4. Các thành phần phụ của da
4.1 Tuyến mồ hôi
Là tuyến ngoại tiết, gồm 3 phần:
– Cầu bài tiết hình tròn khu trú ở trung bì sâu, có hai lớp tế bào là tế bào bài tiết và tế bào vỏ.
– Ống dẫn qua trung bì.
– Ống dẫn qua thượng bì, có hình xoắn ốc, gồm một lớp tế bào có nhiễm hạt sừng.
Tùy vùng cơ thể mà số lượng tuyến mồ hôi có khác nhau, ở lòng bàn tay, chân có khoảng 620 cái/1 cm2, đùi khoảng 120 cái/cm2.Toàn bộ cơ thể có khoảng 2,5 triệu tuyến. Tuyến mồ hôi làm nhiệm vụ điều hòa thân nhiệt, góp phần làm cho thân nhiệt hằng định.
4.2 Tuyến bã
Là tuyến ngoại tiết nằm ở cạnh nang lông, thông với nang lông bằng ống tiết. Đó là một trùm nang tuyến có nhiều thùy, mỗi thùy gồm nhiều lớp tế bào. Trong cùng là những tế bào sản xuất ra chất mỡ, chất mỡ đào thải qua ống tuyến lên mặt da. Có hai loại tuyến bã nang lông:
– Tuyến bã nang lông dài: nằm ở da đầu, râu, lông nách, lông mu. Tại những nơi này tuyến bã nang lông không phát triển.
– Tuyến bã nang lông tơ: đây là tuyến nằm ở khắp nơi trên cơ thể trừ lòng bàn tay, chân không có tuyến bã. Tùy vào vùng cơ thể khác nhau số lượng tuyến bã thay đổi khác nhau. Tuyến bã ở mặt phát triển gấp 5 lần ở những nơi khác.
4.3 Nang lông
Đây là phần lõm sâu xuống của thượng bì chứa sợi lông và tiếp cận với tuyến bã. Cấu tạo của nang lông gồm: chất cơ bản của lông, sợi lông, lớp vỏ trong, lớp vỏ ngoài, gai lông. Các tế bào sắc tố có trong phần chất cơ bản của lông tạo nên màu sắc cho sợi lông.
Ở người có hai loại lông
– Lông nhẵn hay còn gọi là lông tơ: là sợi lông ngắn bao phủ phần cơ thể trừ lòng bàn tay, chân.
– Lông dài: là những sợi lông dài, cứng và có đường kính lớn hơn lông nhẵn. Lông dài nằm ở các vùng da đầu, xung quanh miệng, lông nách, lông mu.
4.4 Móng
Là một tấm sừng mỏng dày chừng 0,3-0,5-0,75mm nằm gọn trong một rãnh của mặt lưng đầu ngón.
Móng có bốn bờ, bờ tự do nằm ở đầu móng, ba bờ còn lại được các nếp da phủ lên gọi là bờ sau và hai bờ bên. Bờ sau và nếp gấp vùng gốc móng gọi là nếp gấp trên móng. Phần móng ở bờ sau có hình vát gọi là rễ móng. Phần còn lại dày đều, hình khum gọi là thân móng. Thượng bì ở dưới móng tiếp với thượng bì da ở nếp gấp sau và các nếp gấp bên. Phần gốc móng có hình bán nguyệt gọi là liềm móng.
Thượng bì ở dưới rễ móng gọi là mầm móng, đó là lớp sinh sản, có lớp malpighi khá dày. Những tế bào ở mầm móng phát triển từ đáy mầm ra thân móng và dẹt đi biến thành lớp lá sừng đắp vào mặt dưới của móng. Bản móng mọc liên tục từ gốc móng ra bờ tự do. Mỗi ngày móng mọc dài khoảng 0,1mm.
Móng chân mọc chậm hơn móng tay. Càng nhiều tuổi móng càng mọc chậm. Thời gian thay thế hoàn toàn 1 móng tay khoảng 3 tháng, móng chân khoảng 6 tháng.
Trên đây là những thông tin chi tiết về cấu trúc giải phẫu da cơ bản nhất. Bạn cùng đọc và tham khảo để nắm được rõ cấu trúc bề mặt da, để có thể chăm sóc da hàng ngày nhé.