Triệu chứng và biến chứng có thể gặp do chốc

5

Bệnh chốc (impetigo) là một nhiễm khuẩn nông thường gặp ở da, đặc trưng bởi mụn nước, bọng nước hóa mủ nhanh, sau đó dập vỡ để lại các vết trợt nông và đóng vảy tiết màu mật ong. Thuật ngữ chốc hóa (impetiginisation) được dùng để chỉ các nhiễm trùng nông thứ phát của một vết thương hoặc một tình trạng da nhất định. Khi thương tổn loét sâu được gọi là chốc loét.

Triệu chứng lâm sàng

Chốc hay gặp ở vùng da hở như ở mặt, quanh các hốc tự nhiên miệng, mũi, ở da đầu, tay, chân, nhưng cũng gặp ở thân mình và các phần khác của cơ thể. Bệnh xuất hiện với một thương tổn đơn độc hoặc nhiều thương tổn. Người bệnh có thể sốt, mệt mỏi, nổi hạch.
Chốc không có bọng nước thường bắt đầu là một dát hồng, tiến triển thành mụn nước, bọng nước hóa mủ nhanh, mau chóng dập vỡ để lại các vết xước đóng vảy tiết màu vàng mật ong. Khi vảy tiết bong ra để lại nền da đỏ ẩm, khi lành để lại vết thâm. Nếu không được điều trị, bệnh có thể tự lành sau 2-4 tuần mà không có sẹo. Thương tổn có thể lan rộng ra các vùng khác do tự lây nhiễm, do cào gãi.

Bất kỳ vùng da nào trên cơ thể đều có thể bị nhưng mặt và các chi hay bị nhất. Thương tổn có thể ngứa nhẹ hoặc không có triệu chứng, có hoặc không có quầng đỏ bao quanh. Hạch ngoại vi thường to. Bệnh nhân có thể có chấn thương nhẹ, côn trùng đốt, ghẻ, thủy đậu, viêm da cơ địa tại vị trí bị chốc.

Chốc loét bắt đầu giống như chốc không bọng nước nhưng tiến triển thành những vết loét hoại tử lõm giữa, chậm lành, để lại sẹo. Chốc bọng nước khởi phát với mụn nước nhỏ, lớn dần thành bọng nước. Bọng nước nông, dễ vỡ, kích thước nhỏ hoặc lớn, chứa dịch vàng, trong, sau chuyển sang vàng đậm, vỡ trong 1 đến 3 ngày, để lại viền da mỏng xung quanh dát đỏ ẩm ướt, khi lành không có sẹo. Xung quanh bọng nước có thể có quầng đỏ hoặc không. Thương tổn hay gặp ở mặt, thân mình, các chi, mông, sau đó lan ra các đầu xa do tự lây nhiễm. Khác với chốc không bọng nước, chốc bọng nước có thể có thương tổn ở niêm mạc má, ít lây hơn, hạch vùng không to.

Các biến chứng Chốc

Có thể gặp biến chứng tại chỗ và toàn thân.

Tại chỗ

  • Chàm hoá: xuất hiện những thương tổn mới như mụn nước trên nền thương tổn chốc cũ, gây khó chịu và ngứa nhiều hơn => nặng thêm tình trạng bệnh.
  • Chốc loét: thương tổn chốc lan rộng, sau vỡ để lại vết loét sâu => không điều trị sớm thương tổn lâu lành, dễ để lại sẹo xấu.
  • Viêm mô tế bào: việc bị chốc sẽ gây nên những thương tổn nhất định trên da, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập, gây nên các bệnh lý khác như viêm mô tế bào.

Toàn thân

  • Viêm đường hô hấp
  • Nhiễm khuẩn huyết
  • Viêm màng não
  • Viêm cơ
  • Viêm cầu thận cấp
  • Sốt tinh hồng nhiệt
  • Hội chứng bong vảy da do tụ cầu: nhiễm trùng cấp tính ở da do tụ cầu vàng
  • Viêm tủy xương